ThS. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Ung thư ở trẻ em là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ em trên toàn thế giới. Nhìn chung, 1800 trường hợp xảy ra mỗi năm ở Pháp với trẻ em dưới 15 tuổi, một nửa xảy ra trước 6 tuổi. Khởi phát sớm sau khi sinh và đặc điểm phôi học của một số bệnh ung thư cho thấy nguyên nhân có thể xảy ra xung quanh thời điểm thụ thai. Các phương pháp điều trị liên quan đến hỗ trợ sinh sản y khoa (medically assisted reproduction - MAR), bao gồm các công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproduction technologies - ART; ví dụ, chuyển phôi (embryo transfer - ET) tươi hoặc chuyển phôi đông lạnh (frozen embryo transfer - FET)) và thụ tinh nhân tạo (artificial insemination - AI), đã được đề xuất là các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đối với ung thư ở trẻ em.
Trẻ em sinh ra sau MAR đại diện cho một nhóm dân số đang gia tăng trên toàn thế giới. So với trẻ em được thụ thai tự nhiên, trẻ em sinh ra sau MAR có nguy cơ cao gặp phải các kết quả bất lợi như sinh non, nhẹ cân khi sinh và bất thường tăng trưởng của thai nhi. Tuy nhiên, người ta biết rất ít về tác động trung hạn và dài hạn của các phương pháp điều trị hỗ trợ sinh sản đối với sức khỏe của trẻ em. Các nghiên cứu trước đây về nguy cơ ung thư ở trẻ em sinh ra sau ART, hầu hết đều dựa trên các nhóm trẻ em tiếp xúc tương đối nhỏ hoặc các thiết kế nghiên cứu bệnh chứng dựa trên phỏng vấn đã cung cấp các kết quả trái ngược nhau. Về những phát hiện từ các nhóm lớn bao gồm 100000 trẻ em hoặc nhiều hơn, không có báo cáo nào về sự gia tăng nguy cơ ung thư nói chung, ngoại trừ 1 nghiên cứu báo cáo về mối liên hệ không đáng kể với ART. Tuy nhiên, những mối tương quan thuận đã được báo cáo khi đánh giá các loại ung thư cụ thể. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây đánh giá nguy cơ ung thư ở trẻ em bằng ET tươi hoặc FET dựa trên số lượng hạn chế bệnh nhân tiếp xúc với từng phương thức ART.
Do đó, Paula Rios và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá nguy cơ ung thư nói chung và theo từng loại ung thư ở trẻ em sinh ra sau khi sử dụng ART (ET tươi hoặc FET) hoặc sau AI so với trẻ em thụ thai tự nhiên, xét đến tất cả trẻ em sinh ra ở Pháp trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2021.
Nghiên cứu đoàn hệ này đã tiến hành tìm kiếm sổ đăng ký quốc gia về mẹ con của Pháp (French National Mother-Child Register - EPI-MERES) đối với tất cả các ca sinh con sống diễn ra tại Pháp trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 2010 đến ngày 31 tháng 12 năm 2021 và theo dõi cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2022. EPI-MERES được xây dựng từ dữ liệu toàn diện của Hệ thống dữ liệu y tế quốc gia Pháp. Phân tích dữ liệu được thực hiện từ ngày 1 tháng 12 năm 2021 đến ngày 30 tháng 6 năm 2023. Nghiên cứu tiến hành đánh giá, so sánh nguy cơ ung thư nói chung và theo từng loại ung thư giữa trẻ em sinh ra sau ET tươi, FET hoặc AI và trẻ em thụ thai tự nhiên.
Nghiên cứu này bao gồm 8526306 trẻ em với độ tuổi trung bình (SD) là 6,4 (3,4) năm. Bé trai chiếm 51,2% và bé gái chiếm 48,8%; 96,4% trẻ em là con một, 12,1% nhỏ so với tuổi thai khi sinh và 3,1% bị dị tật bẩm sinh. Có 260236 trẻ em (3,1%) được sinh ra sau MAR, bao gồm 133965 (1,6%) sau ET tươi, 66165 (0,8%) sau FET và 60106 (0,7%) sau AI.
Trong thời gian theo dõi trung bình là 6,7 (IQR, 3,7-9,6) năm đối với trẻ em thụ thai tự nhiên và 6,8 (IQR, 3,4-9,1) năm, 4,4 (IQR, 2,4-7,3) năm và 6,5 (IQR, 3,6-9,4) năm đối với trẻ em sinh ra sau ET tươi, FET và AI, có 9256 bệnh nhân ung thư đã được xác định. Trong đó, có 8964 trường hợp được quan sát thấy ở trẻ em thụ thai tự nhiên, 165, 57 và 70 ở trẻ em sinh ra sau ET tươi, FET và AI. Nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư nói chung không khác nhau giữa trẻ được thụ thai tự nhiên và trẻ sinh ra sau ET tươi (tỷ lệ nguy cơ [hazard ratio - HR], 1,12 [95% CI, 0,96 đến 1,31]), FET (HR, 1,02 [95% CI, 0,78 đến 1,32]) hoặc AI (HR, 1,09 [95% CI, 0,86 đến 1,38]).
Bên cạnh đó, bệnh bạch cầu là loại ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất, chiếm 29,4% tổng số trường hợp. Bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính (acute lymphoblastic leukemia - ALL) chiếm 79,1% các trường hợp bệnh bạch cầu. Nhìn chung, nguy cơ mắc bệnh bạch cầu ở trẻ em sinh ra sau MAR không khác biệt đáng kể so với trẻ em thụ thai tự nhiên. Tuy nhiên, nguy cơ mắc ALL cao hơn ở trẻ sinh ra sau FET (20 trường hợp bệnh nhân; HR 1,61 [95% CI, 1,04 đến 2,50]; chênh lệch nguy cơ [risk difference - RD], 23,2 [95% CI, 1,5 đến 57,0] trên một triệu người-năm) so với trẻ em thụ thai tự nhiên (P = 0,07).
Ngoài ra, trong các phân tích giới hạn ở trẻ em sinh ra từ năm 2010 đến năm 2015, thời gian theo dõi trung bình dài hơn và đồng nhất hơn đối với các phương thức thụ thai khác nhau. Các thời gian theo dõi trung bình này như sau: 9,4 (IQR, 7,8-10,9) năm đối với thụ thai tự nhiên, 9,4 (IQR, 7,9-10,9) năm đối với ET tươi, 8,8 (IQR, 7,5-10,4) năm đối với FET và 9,3 (IQR, 7,9-10,8) năm đối với AI. Kết quả cho thấy nguy cơ mắc bệnh bạch cầu cao hơn ở trẻ em sinh ra sau ET tươi (45 trường hợp bệnh nhân; HR, 1,42 [95% CI, 1,06 đến 1,92]; RD đã điều chỉnh, 19,7 [95% CI, 2,8 đến 43,2] trên một triệu người-năm) nhưng không tăng sau FET (HR, 1,27 [95% CI, 0,70 đến 2,29]) (P = 0,06).
Những phát hiện của nghiên cứu đoàn hệ này cho thấy nguy cơ ung thư nói chung không khác nhau giữa trẻ em sinh ra sau ET tươi, FET hoặc AI và trẻ em thụ thai tự nhiên. Tuy nhiên, nguy cơ mắc bệnh bạch cầu tăng cao đã được quan sát thấy ở trẻ em sinh ra sau ET tươi (đặc biệt là những trẻ có thời gian theo dõi dài nhất) và ở trẻ em sinh ra sau FET (đặc biệt là bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính). Những nguy cơ này mặc dù chỉ xảy ra ở một số ít trường hợp, nhưng cần được theo dõi nhiều hơn nữa do việc sử dụng ART sẽ ngày càng liên tục tăng trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Từ khóa: Hỗ trợ sinh sản y khoa, nguy cơ ung thư.
Tài liệu tham khảo: Rios P, Herlemont P, Fauque P và cộng sự. Medically Assisted Reproduction and Risk of Cancer Among Offspring. JAMA Network Open. 2024.
ThS. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Ung thư ở trẻ em là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ em trên toàn thế giới. Nhìn chung, 1800 trường hợp xảy ra mỗi năm ở Pháp với trẻ em dưới 15 tuổi, một nửa xảy ra trước 6 tuổi. Khởi phát sớm sau khi sinh và đặc điểm phôi học của một số bệnh ung thư cho thấy nguyên nhân có thể xảy ra xung quanh thời điểm thụ thai. Các phương pháp điều trị liên quan đến hỗ trợ sinh sản y khoa (medically assisted reproduction - MAR), bao gồm các công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproduction technologies - ART; ví dụ, chuyển phôi (embryo transfer - ET) tươi hoặc chuyển phôi đông lạnh (frozen embryo transfer - FET)) và thụ tinh nhân tạo (artificial insemination - AI), đã được đề xuất là các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đối với ung thư ở trẻ em.
Trẻ em sinh ra sau MAR đại diện cho một nhóm dân số đang gia tăng trên toàn thế giới. So với trẻ em được thụ thai tự nhiên, trẻ em sinh ra sau MAR có nguy cơ cao gặp phải các kết quả bất lợi như sinh non, nhẹ cân khi sinh và bất thường tăng trưởng của thai nhi. Tuy nhiên, người ta biết rất ít về tác động trung hạn và dài hạn của các phương pháp điều trị hỗ trợ sinh sản đối với sức khỏe của trẻ em. Các nghiên cứu trước đây về nguy cơ ung thư ở trẻ em sinh ra sau ART, hầu hết đều dựa trên các nhóm trẻ em tiếp xúc tương đối nhỏ hoặc các thiết kế nghiên cứu bệnh chứng dựa trên phỏng vấn đã cung cấp các kết quả trái ngược nhau. Về những phát hiện từ các nhóm lớn bao gồm 100000 trẻ em hoặc nhiều hơn, không có báo cáo nào về sự gia tăng nguy cơ ung thư nói chung, ngoại trừ 1 nghiên cứu báo cáo về mối liên hệ không đáng kể với ART. Tuy nhiên, những mối tương quan thuận đã được báo cáo khi đánh giá các loại ung thư cụ thể. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây đánh giá nguy cơ ung thư ở trẻ em bằng ET tươi hoặc FET dựa trên số lượng hạn chế bệnh nhân tiếp xúc với từng phương thức ART.
Do đó, Paula Rios và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá nguy cơ ung thư nói chung và theo từng loại ung thư ở trẻ em sinh ra sau khi sử dụng ART (ET tươi hoặc FET) hoặc sau AI so với trẻ em thụ thai tự nhiên, xét đến tất cả trẻ em sinh ra ở Pháp trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2021.
Nghiên cứu đoàn hệ này đã tiến hành tìm kiếm sổ đăng ký quốc gia về mẹ con của Pháp (French National Mother-Child Register - EPI-MERES) đối với tất cả các ca sinh con sống diễn ra tại Pháp trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 2010 đến ngày 31 tháng 12 năm 2021 và theo dõi cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2022. EPI-MERES được xây dựng từ dữ liệu toàn diện của Hệ thống dữ liệu y tế quốc gia Pháp. Phân tích dữ liệu được thực hiện từ ngày 1 tháng 12 năm 2021 đến ngày 30 tháng 6 năm 2023. Nghiên cứu tiến hành đánh giá, so sánh nguy cơ ung thư nói chung và theo từng loại ung thư giữa trẻ em sinh ra sau ET tươi, FET hoặc AI và trẻ em thụ thai tự nhiên.
Nghiên cứu này bao gồm 8526306 trẻ em với độ tuổi trung bình (SD) là 6,4 (3,4) năm. Bé trai chiếm 51,2% và bé gái chiếm 48,8%; 96,4% trẻ em là con một, 12,1% nhỏ so với tuổi thai khi sinh và 3,1% bị dị tật bẩm sinh. Có 260236 trẻ em (3,1%) được sinh ra sau MAR, bao gồm 133965 (1,6%) sau ET tươi, 66165 (0,8%) sau FET và 60106 (0,7%) sau AI.
Trong thời gian theo dõi trung bình là 6,7 (IQR, 3,7-9,6) năm đối với trẻ em thụ thai tự nhiên và 6,8 (IQR, 3,4-9,1) năm, 4,4 (IQR, 2,4-7,3) năm và 6,5 (IQR, 3,6-9,4) năm đối với trẻ em sinh ra sau ET tươi, FET và AI, có 9256 bệnh nhân ung thư đã được xác định. Trong đó, có 8964 trường hợp được quan sát thấy ở trẻ em thụ thai tự nhiên, 165, 57 và 70 ở trẻ em sinh ra sau ET tươi, FET và AI. Nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư nói chung không khác nhau giữa trẻ được thụ thai tự nhiên và trẻ sinh ra sau ET tươi (tỷ lệ nguy cơ [hazard ratio - HR], 1,12 [95% CI, 0,96 đến 1,31]), FET (HR, 1,02 [95% CI, 0,78 đến 1,32]) hoặc AI (HR, 1,09 [95% CI, 0,86 đến 1,38]).
Bên cạnh đó, bệnh bạch cầu là loại ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất, chiếm 29,4% tổng số trường hợp. Bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính (acute lymphoblastic leukemia - ALL) chiếm 79,1% các trường hợp bệnh bạch cầu. Nhìn chung, nguy cơ mắc bệnh bạch cầu ở trẻ em sinh ra sau MAR không khác biệt đáng kể so với trẻ em thụ thai tự nhiên. Tuy nhiên, nguy cơ mắc ALL cao hơn ở trẻ sinh ra sau FET (20 trường hợp bệnh nhân; HR 1,61 [95% CI, 1,04 đến 2,50]; chênh lệch nguy cơ [risk difference - RD], 23,2 [95% CI, 1,5 đến 57,0] trên một triệu người-năm) so với trẻ em thụ thai tự nhiên (P = 0,07).
Ngoài ra, trong các phân tích giới hạn ở trẻ em sinh ra từ năm 2010 đến năm 2015, thời gian theo dõi trung bình dài hơn và đồng nhất hơn đối với các phương thức thụ thai khác nhau. Các thời gian theo dõi trung bình này như sau: 9,4 (IQR, 7,8-10,9) năm đối với thụ thai tự nhiên, 9,4 (IQR, 7,9-10,9) năm đối với ET tươi, 8,8 (IQR, 7,5-10,4) năm đối với FET và 9,3 (IQR, 7,9-10,8) năm đối với AI. Kết quả cho thấy nguy cơ mắc bệnh bạch cầu cao hơn ở trẻ em sinh ra sau ET tươi (45 trường hợp bệnh nhân; HR, 1,42 [95% CI, 1,06 đến 1,92]; RD đã điều chỉnh, 19,7 [95% CI, 2,8 đến 43,2] trên một triệu người-năm) nhưng không tăng sau FET (HR, 1,27 [95% CI, 0,70 đến 2,29]) (P = 0,06).
Những phát hiện của nghiên cứu đoàn hệ này cho thấy nguy cơ ung thư nói chung không khác nhau giữa trẻ em sinh ra sau ET tươi, FET hoặc AI và trẻ em thụ thai tự nhiên. Tuy nhiên, nguy cơ mắc bệnh bạch cầu tăng cao đã được quan sát thấy ở trẻ em sinh ra sau ET tươi (đặc biệt là những trẻ có thời gian theo dõi dài nhất) và ở trẻ em sinh ra sau FET (đặc biệt là bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính). Những nguy cơ này mặc dù chỉ xảy ra ở một số ít trường hợp, nhưng cần được theo dõi nhiều hơn nữa do việc sử dụng ART sẽ ngày càng liên tục tăng trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Từ khóa: Hỗ trợ sinh sản y khoa, nguy cơ ung thư.
Tài liệu tham khảo: Rios P, Herlemont P, Fauque P và cộng sự. Medically Assisted Reproduction and Risk of Cancer Among Offspring. JAMA Network Open. 2024.












Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025
Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...